Gia đình Phổ_Nghi

Tổ tiên của Phổ Nghi
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nhân Tông Duệ Hoàng đế Ngung Diễm
 
 
 
 
 
 
 
Tuyên Tông Thành Hoàng đế Mân Ninh
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp thị
 
 
 
 
 
 
 
Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Bút thiếp thức Linh Thọ
 
 
 
 
 
 
 
Trang Thuận Hoàng quý phi Ô Nhã thị
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ông thị
 
 
 
 
 
 
 
Thuần Thân vương, Nhiếp chính vương Tái Phong
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngũ phẩm Điển vệ Lưu Đức Khánh
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Thuần Hiền Thân vương Trắc phi Lưu Giai thị
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tuyên Thống Hoàng đế Phổ Nghi
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Khách Thập Cát Nhĩ, Ban bạn Đại thần Tháp Tư Cáp
 
 
 
 
 
 
 
Cam Túc, Lương Châu trấn Tổng binh Trường Thọ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tát Mã Nhĩ thị
 
 
 
 
 
 
 
Văn Hoa điện Đại học sĩ Vinh Lộc
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Xước Hòa Thái
 
 
 
 
 
 
 
Ô Trát thị
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Thuần Thân vương phi Ấu Lan
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Vụ Bổn
 
 
 
 
 
 
 
Võ Anh điện Đại học sĩ Linh Quế
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Qua Nhĩ Giai thị, con gái Thạch Lan Đồ
 
 
 
 
 
 
 
Ái Tân Giác La thị
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tôn Sinh
 
 
 
 
 
 
 
Tôn thị
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  • Thân phụ: Thuần Thân vương Tái Phong, được Từ Hi Thái hậu khâm mệnh làm Nhiếp chính vương.
  • Thân mẫu: Thuần Thân vương phi Ấu Lan, Qua Nhĩ Giai thị, con gái Văn Hoa điện Đại học sĩ Vinh Lộc.
  • Anh chị em: Phổ Nghi có 3 người em trai và 7 người em gái.
  1. Phổ Kiệt [溥杰], em trai cùng mẹ.
  2. Phổ Khái [溥倛]
  3. Phổ Nhậm [溥任]
  4. Uẩn Anh [韞媖], em gái cùng mẹ.
  5. Uẩn Hòa [韞和], em gái cùng mẹ.
  6. Uẩn Dĩnh [韞穎], em gái cùng mẹ.
  7. Uẩn Nhàn [韞嫻]
  8. Uẩn Hinh [韞馨]
  9. Uẩn Ngu [韞娛]
  10. Uẩn Hoan [韞歡]
  • Thê thiếp: Phổ Nghi có 5 người vợ chính thức.
TênChân dungSinh mấtGhi chú
Chính thất
Uyển Dung13 tháng 11, năm 1906
- 20 tháng 6, năm 1946
(39 tuổi)
Xuất thân Quách Bố La thị, Mãn Châu Chính Bạch kỳ. Cha là Vinh Nguyên.

Năm 1922, bà được cưới làm Hoàng hậu. Theo hồi ký "Nửa đời trước của tôi", sau khi Văn Tú ly hôn Phổ Nghi, tình cảm giữa Uyển Dung và Phổ Nghi cũng ngày càng rạn nứt. Khi Phổ Nghi làm Hoàng đế của Mãn Châu Quốc, bà cũng trở thành Hoàng hậu. Sau đó, bà bị phát hiện ngoại tình với một tài xế và sinh một bé gái, đứa bé bị thiêu chết, còn Uyển Dung bị giam cầm.

Năm 1945, bà thoát cảnh bị giam cầm nhưng qua đời sau đó 1 năm vì bệnh tật và cơn đói thuốc phiện.

Được "Tuyên Quốc công" kiến nghị thụy hiệu là Hiếu Khác Mẫn Hoàng hậu (孝恪愍皇后), không chính thức.

Lý Thục Hiền4 tháng 9 năm 1925
– 9 tháng 6 năm 1997
(72 tuổi)
người Hán, quê ở Hàng Châu, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ.

Bà kết hôn với Phổ Nghi năm 1962, là kế thất của Phổ Nghi. Vào những năm đầu thập niên 80, Lý Thục Hiền trở nên giàu có nhờ vào việc cho xuất bản hồi ký của bà về những tháng năm cuối cùng của mình với Phổ Nghi.

Được "Tuyên Quốc công" kiến nghị thụy hiệu là Hiếu Duệ Mẫn Hoàng hậu (孝睿愍皇后), không chính thức.

Trắc thất
Văn Tú20 tháng 12 năm 1909
– 17 tháng 9 năm 1953
(43 tuổi)
Xuất thân gia tộc Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, Mông Cổ Tương Hoàng kỳ. Cha là Đoan Cung.

Năm 1922, được chọn làm Phi của Phổ Nghi, với danh hiệu [Thục phi; 淑妃]. Năm 1931, bà yêu cầu ly hôn với Phổ Nghi, tạo thành một scandal khi ấy. Để giữ thể diện hoàng thất, ngay sau ngày ký đơn ly hôn, Phổ Nghi ra một "chỉ dụ" với nội dung phế bỏ Thục phi Văn Tú làm thứ dân.

Bà trở thành giáo viên tiểu học rồi tái giá với Lưu Chấn Đông, một thiếu tá trong quân đội Quốc dân đảng.

Đàm Ngọc Linh11 tháng 8 năm 1920
– 14 tháng 8 năm 1942
(22 tuổi)
Xuất thân quý tộc người Mãn, nguyên họ Tha Tha Lạp thị, sau phải đổi họ thành họ Hán.

Năm 1937, Đàm Ngọc Linh được tuyển làm phi tần cho Phổ Nghi, hiệu [Tường Quý nhân; 祥貴人]. Sau khi qua đời, Phổ Nghi ban thụy hiệu là Minh Hiền Quý phi (明賢貴妃). Là người duy nhất trong số 5 bà vợ được Phổ Nghi ban thụy hiệu và cử hành lễ an táng trọng thể. Theo hồi ký "Nửa đời trước của tôi", Đàm Ngọc Linh là người vợ Phổ Nghi yêu thương nhất, sau khi bà mất, Phổ Nghi vẫn luôn giữ bên mình lọn tóc và di ảnh của bà.

Được "Tuyên Quốc công" kiến nghị thụy hiệu là Minh Hiền Hoàng quý phi (明賢皇貴妃), không chính thức.

Lý Ngọc Cầm15 tháng 7 năm 1928
– 24 tháng 4 năm 2001
(73 tuổi)
Nguyên là người Hán, quê gốc ở Sơn Đông, con nhà nghèo ở Trường Xuân, Cát Lâm.

Năm 1943, Lý Ngọc Cầm khi đang học một trường nữ sinh, đã được nạp cho Phổ Nghi làm phi tần nhằm thay thế Đàm Ngọc Linh, hiệu [Phúc Quý nhân; 福貴人]. Năm 1958, bà ly hôn với phổ Nghi và tái giá với một kỹ thuật viên tên Hoàng Dục Canh và có với ông này 2 người con trai.

Được "Tuyên Quốc công" kiến nghị thụy hiệu là Đôn Túc Phúc Quý phi (敦肅福貴妃), không chính thức.